hoàn cảnh sáng tác vội vàng

Đề bài: Em hãy phân tích Vội vàng của Xuân Diệu để thấy được những đặc sắc khi viết về lòng ham sống của nhà thơ. Xuân Diệu là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm hay trong đó phải kể đến những tác phẩm như Vội Vàng, Thơ Bài thơ "Vội vàng" là của tác giả nào sau đây? Trắc nghiệm bài Vội vàng. DRAFT. 1st - 2nd grade. Hình ảnh nào trong bài thơ được xem là sáng tạo mới mẻ, độc đáo nhất của Xuân Diệu? Từ hoàn cảnh đáng buồn của đất nước trong thời đại đó Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại. Nói làm chi xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh Nhưng vội vàng một nửa": Dấu chấm đột ngột xuất hiện giữa dòng thơ tạo bước chuyển (khúc ngoặt) ð cú sốc về tiết tấu và nó là bản lề của tâm trạng. Trước dấu chấm là đỉnh cao của cảm xúc, là dào dạt, rộn ràng, đam mê. Sau dấu chấm, "vội vàng một nửa". Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong toàn bài, hai chữ "vội vàng" được láy lại từ nhan đề. Vì thế ông xứng đáng với danh hiệu "một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn". Thi sĩ đã sáng tác bài "Vội vàng" năm 1938, được in trong tập "Thơ Thơ"- tập thơ đầu tay tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. 2. Tác phẩm. a/ Xuất xứ - Tác phẩm được trích trong tập truyện ngắn "Nắng trong vườn" (1938). - Bối cảnh: Quê ngoại của tác giả - phố huyện, ga xép Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. b/ Tóm tắt: SGK. II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN. 1/ Phố huyện lúc . a/ Khung cảnh Vay Tiền Online Không Trả Có Sao Không. Xuân Diệu là một trong những nhà văn, nhà thơ và hoạ sĩ nổi tiếng nhất của văn học và nghệ thuật Việt Nam. Những đóng góp của ông không chỉ làm phong phú thêm văn hóa nghệ thuật của đất nước mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. 1. Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Vội Vàng “Vội vàng” là một từ ngữ có nghĩa là muốn sử dụng thời gian một cách nhanh chóng để hoàn thành một việc gì đó. Với Xuân Diệu, nhà thơ được biết đến với biệt danh “Ông hoàng thơ tình”, tiêu đề “Vội vàng” thể hiện một triết lý sống mới của ông. Theo như triết lý này, sống vội vàng không chỉ đơn thuần là sống nhanh, sống gấp rút, sống ích kỉ. Thay vào đó, đó là cách sống biết tận hưởng mọi giá trị tốt đẹp trong cuộc sống và tận hiến cho những giá trị đó trong thế giới hiện tại. Đồng thời, nhà thơ cũng muốn gián tiếp phê phán những lối sống thờ ơ và lãng quên thực tại. Điều này cho thấy rằng chúng ta cần phải trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống, hưởng thụ mọi thứ xung quanh và sống với trách nhiệm với mọi giá trị cuộc sống, để có thể tạo ra một cuộc sống đầy đủ và ý nghĩa hơn. Xem thêm Cảm nhận 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất 2. Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Vội Vàng “Bài thơ Vội vàng” của Xuân Diệu trong tập “Thơ Thơ” 1938 là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông trước cách mạng rút. Bài thơ này thể hiện tình yêu cuồng nhiệt của tác giả đến với cuộc sống và những cảm xúc nồng nàn tha thiết của một con người khi hạnh phúc hay đau khổ. Điều đặc biệt trong bài thơ này là quan niệm nhân sinh mới mẻ mà Xuân Diệu muốn truyền tải đến độc giả. Đó là những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời và ý nghĩa của nó, với sự tận tâm và cảm xúc chân thành. Các từ ngữ trong bài thơ được chọn lựa kỹ càng, mỗi từ gợi lên một hình ảnh sắc nét, tạo nên một bức tranh hình dung về cuộc sống tươi đẹp, về tình yêu và hy vọng, về những tâm hồn đang dần trưởng thành. Vì vậy, “Vội vàng” không chỉ là một tác phẩm văn học đơn thuần, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đích thực, mang lại cảm hứng và tinh thần cho người đọc. Xem thêm Phân tích khổ 2 bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay chọn lọc 3. Giá trị nội dung bài thơ Vội vàng Bài thơ khuyên nhắc thế hệ trẻ sống nhanh trước khi tuổi trẻ qua đi, bởi thời gian không chờ đợi ai. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự ham sống và quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc của tác giả Xuân Diệu. Cái tôi trong thơ ông là biểu tượng cho thơ Mới thời đó. – Quan niệm vẻ đẹp con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên, vượt thoát quan niệm nghệ thuật cũ kĩ của văn học trung đại. – Ý thức cá nhân, đời sống cá thể, khao khát của một người được bày tỏ mạnh mẽ. – Quan niệm mới mẻ về thời gian, thời gian tuyến tính thay vì tuần hoàn như quan niệm của người trung đại. – Khao khát sống mãnh liệt và tâm thế chủ động, sẵn sàng hưởng thụ hạnh phúc cá nhân, tương đương với mùa xuân và tuổi trẻ. Xem thêm Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu chọn lọc siêu hay 4. Giá trị nghệ thuật bài thơ Vội vàng Bài thơ của Xuân Diệu mang đến một thông điệp sâu sắc về tầm quan trọng của cuộc sống và thời gian. Tác giả muốn nhắc nhở cho thế hệ trẻ rằng tuổi trẻ chỉ đến một lần duy nhất và thời gian sẽ không đợi một ai cả. Những giây phút đẹp nhất trong cuộc đời chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, vì vậy hãy sống với tất cả sự nhiệt huyết và tận hưởng những điều tuyệt vời nhất mà cuộc đời có thể mang đến. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu và quan niệm sống mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc. Bằng cách sử dụng các hình ảnh thơ độc đáo và giàu sức gợi cảm, Xuân Diệu đã tạo ra một bức tranh tươi đẹp về mùa xuân và thiên nhiên, giúp độc giả cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân thông qua tất cả các giác quan của mình. Từ cách sử dụng ngôn ngữ đến thủ pháp ẩn dụ, bài thơ của Xuân Diệu đã trở thành một tác phẩm văn học vĩ đại của thời đại thơ Mới. Đây là một trong những dấu mốc quan trọng cho sự thắng thế hoàn toàn của thơ Mới trên thi đàn lúc bấy giờ. Xem thêm Kết bài Vội vàng của Xuân Diệu cơ bản, nâng cao, học sinh giỏi 5. Đọc – hiểu nội dung Phần 1 Tình yêu tha thiết với cuộc sống nơi trần thế Bốn câu đầu khát vọng lạ lùng của tác giả Bốn câu đầu thể hiện khát vọng lạ lùng của thi nhân muốn đoạt quyền tạo hóa và làm ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên. Điều này được thể hiện qua những động từ tính cảm xúc nồng nàn mãnh liệt như tắt nắng, buộc gió, màu đừng nhạt, và hương đừng bay. Chín câu tiếp theo bức tranh thiên nhiên của mùa xuân nồng nàn, tươi mới và tràn đầy sức sống Đây là phiên bản ngắn gọn hơn của đoạn văn bạn cung cấp Thi nhân miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân bằng hình ảnh sống động Ong và bướm đang thu hoạch mật Hoa đồng nội nở trong màu xanh Cành cây lung linh trong gió thổi Yến anh hát vang, níu chân người nghe Ánh nắng chiếu rọi, phản chiếu trên đôi mắt của cô gái xinh đẹp. Những từ ngữ tươi mới của mùa xuân như xanh rì, cùng với âm thanh trầm lắng của khúc tình si và những hình ảnh đầy màu sắc như hoa đồng nội, cành tơ và ong bướm, đã tạo nên một bức tranh xuân dồi dào sinh lực. Đây là một khung cảnh tràn đầy sức sống và tinh khôi, hấp dẫn và đầy xuân tình. Mỗi bước chân của thi nhân được miêu tả bằng một điệp từ đầy hào hứng và khám phá. Những bước chân đó khám phá và tìm kiếm vẻ đẹp của mùa xuân, tạo nên một khung cảnh đầy tươi trẻ và rực rỡ. Bức tranh xuân tươi đẹp đã tồn tại từ lâu nhưng cho đến bây giờ, Xuân Diệu mới thực sự nhìn thấy nó. Với đôi mắt xanh non và biếc rờn, Xuân Diệu đã cảm nhận được vẻ đẹp đầy mê hoặc và đáng yêu của mùa xuân. Cuộc sống mùa xuân tràn ngập trước mắt Xuân Diệu như một bữa tiệc trần gian đang mời gọi con người thưởng thức. Với quan điểm của Xuân Diệu, bức tranh xuân tươi đẹp không phải ở một nơi xa xôi, mà nằm ngay trong cuộc sống đời thường. Các từ ngữ và hình ảnh miêu tả mùa xuân đều xuất hiện xung quanh chúng ta và chỉ cần chúng ta dừng lại để cảm nhận, chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp của mùa xuân. Đây là một quan niệm nhân sinh mới mẻ và tích cực, khác với quan điểm của các nhà thơ lãng mạn cùng thời. Thiên nhiên đẹp. Với Xuân Diệu, đẹp nhất là con người trong tuổi trẻ và tình yêu. Xuân Diệu miêu tả người thiếu nữ bằng những hình ảnh độc đáo, ví như tháng giêng giống như cặp môi gần của một thiếu nữ. Thi sĩ tận hưởng vẻ đẹp của trần gian và cuộc đời, nhưng cũng cảm thấy tiếc xuân ngay giữa mùa xuân. Nhờ cách cảm nhận tinh tế về thiên nhiên và con người, nhà thơ đã bày ra một bữa tiệc trần gian và gợi lên niềm cảm xúc ngây ngất trước cảnh sắc ấy. Phần 2 Quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian – tình yêu – tuổi trẻ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ Xuân Diệu chống đối quan niệm xưa về thời gian tuần hoàn bằng cách sử dụng các cặp từ đối lập, giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi khẩn trương. Ông lựa chọn một quan niệm khác thời gian tuyến tính, một đi không trở lại. → Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Đây là quan niệm rất biện chứng về tuổi trẻ. Xuân Diệu sử dụng tuổi trẻ, mùa xuân làm thước đo thời gian, thậm chí lấy quãng thời gian ngắn nhất, giàu ý nghĩa trong sinh mệnh con người. Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, khác với mùa xuân có thể tuần hoàn. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Giới hạn lớn nhất của con người chính là thời gian. Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian đầy tính mất mát, bởi mỗi khoảnh khắc đều trôi qua để trở thành quá khứ, như một cuộc chia lìa, một sự tàn phai của vạn vật, và không gian đang tiễn biệt thời gian. Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Nhà thơ Xuân Diệu coi tuổi trẻ và tình yêu là kho báu quý giá nhất của cuộc đời, ngay cả khi cảnh vật xung quanh phai nhạt và đi vào độ tàn phai, u ám. Nhằm tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống và vượt qua giới hạn của thời gian, ông đề xuất phương thức sống vội vàng, sống gấp gáp, như trong câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Phần này nhấn mạnh quan điểm của Xuân Diệu về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu, và cách sống vội vàng của ông. Phần 3 Lời tác giả kêu gọi sống vội vàng, giục giã, cuống quýt Xuân Diệu cho rằng, sống vội vàng, gấp gáp không đủ, còn phải cường độ hơn, dồn nén hơn. Ngôn từ rất sắc nét, cùng hợp với tâm trạng tăng tiến dùng từ “ôm” chưa đủ, còn muốn “riết” cho chặt lại. “Riết” chưa đủ, còn thèm một cách yêu say đắm, muốn “thâu trong một cái hôn nhiều” cho no nê, lấp đầy. Cuối cùng là “cắn” vào xuân hồng. Đây là một cách diễn đạt táo bạo theo phong cách của Xuân Diệu. Tác giả muốn thể hiện cảm xúc mãnh liệt của mình. Cái tôi của ông ấy đã hòa trộn vào cái tôi của chúng ta, tạo ra những âm điệu say sưa, chuếch choáng. Thể thơ linh hoạt, nhịp điệu tràn đầy cảm xúc. Tính từ chỉ xuân sắc và trạng thái được dùng khéo léo, truyền tải được tình yêu mãnh liệt và táo bạo của tác giả. Tác giả Có ý thức rõ ràng về giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân, ý thức nhân bản, nhân văn rất cao. Rất đam mê cuộc sống thường nhật, với niềm vui đời thường. Khát khao sống mãnh liệt và tâm trạng sống cuồng nhiệt. ⇒ Đoạn thơ thể hiện tình yêu cuồng nhiệt đối với cuộc sống. Đằng sau tiếng nói yêu đời là một quan niệm tích cực về cuộc sống Hãy sống trọn vẹn mỗi khoảnh khắc của tuổi trẻ! Câu hỏi Hoàn cảnh sáng tác Vội vàng Lời giải Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng rút trong tập “Thơ Thơ” 1938. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống. Các em cùng tìm hiểu thêm về tác phẩm Vội vàng nhé! 1. Tác giả Xuân Diệu Nhà thơ tình Xuân Diệu sinh ngày 2-2-1916 tại Tỉnh Bình Định. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Hà Tĩnh. Xuân Diệu xếp hạng nổi tiếng thứ 79876 trên thế giới và thứ 3 trong danh sách Nhà thơ tình nổi tiếng. 2. Cuộc đời và sự nghiệp Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho nay là Tiền Giang, sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Năm 1943, ông tốt nghiệp cử nhân Luật và về làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho. Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Việt Nam Dân chủ Đảng, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí Tiền phong của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn nghệ ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. 3. Thành tựu văn học Thi sĩ Xuân Diệu được mệnh danh là “Ông hoàng thơ tình”. Ông là một cây đại thụ của thơVề lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính, trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính tập thơ “Thơ thơ” 1938 và “Gửi hương cho gió” 1945. Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời “Vội vàng”, “Giục giã”. Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận Lời kỹ nữ. Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh lẽ sống vội vàng “Vội vàng”. Nỗi khát khao đến chảy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời “Dại khờ”, “Nước đổ lá khoai”. Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ “cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người” Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách mạng với “Ngọn quốc kỳ” 1945 và “Hội nghị non sông” 1946 với tấm lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng. Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu tập “Riêng chung” 1960, “Hai đợt sóng” 1967, “tập “Hồn tôi đôi cánh” 1976… 4. Giá trị nội dung bài thơ Vội vàng Bài thơ là lời giục giã thế hệ trẻ sống vội vàng, sống cuống quít để hưởng thụ hết những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Bởi tuổi trẻ của mỗi người chỉ đến một lần duy nhất và thời gian thì không đứng yên để đợi một ai cả. Nó sẽ trôi đi và người ta sẽ mất nó vĩnh viền. Đồng thời, bài thơ đã thế hiện lòng ham sống mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu rất hiện đại cùng với một quan niệm sống mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc. Cái tôi trong thơ Xuân Diệu là cái tôi tiêu biểu của thời đại thơ Mới, cũng là dấu mốc cho sự thắng thế hoàn toàn của thơ Mới trên thi đàn lúc bấy giờ + Đó là một quan niệm đầy táo bạo về vẻ đẹp của con người, vượt thoát và đảo lộn hoàn toàn những quan niệm nghệ thuật cũ kĩ đã tồn tại hàng nghìn năm của văn học trung đại. Đó là quan niệm lấy con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên. Thiên nhiên sẽ chỉ đẹp khi nó gắn liền và mang vẻ đẹp của con người. + Đó là một ý thức ráo riết về ý thức cá nhân, về đời sống cá thể, những khao khát này là của một người, của một cái tôi, mạnh dạn bước ra để bày tỏ chứ không còn cần phải núp dưới bóng của cái ta nữa. + Đó là một quan niệm vô cùng mới mẻ về thời gian. Thời gian với những nhà thơ mới là thời gian tuyến tính, đã đi là không bao giờ trở lại chứ không còn là thời gian tuần hoàn, sẽ quay lại đúng thời điểm như người trung đại vẫn quan niệm nữa. Và cũng chính vì thế mà Xuân Diệu đã sống vội vàng để hưởng thụ hết những cảnh đẹp, những giá trị của cuộc sống này. + Đó là khao khát sống mãnh liệt và một tâm thế chủ động, sẵn sàng hưởng thụ, sẵn sàn đến với hạnh phúc của mình. Mùa xuân chính là tuổi trẻ, là hạnh phúc cá nhân của con người. 5. Giá trị nghệ thuật bài thơ Vội vàng Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi cảm, gợi hình Tháng Giêng ngon, Mùi tháng năm,… Thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để người thi sĩ có thể cảm nhận mùa xuân, cái đẹp của thiên nhiên đất trời bằng tất cả các giác quan. Đó chính là cách sống hết mình, tận hưởng hết mình, giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu Một loạt những hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc và các động từ mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quít, hối hả, rộn rã khiến cho bài thơ mang âm hưởng như một lời hiệu triệu, một sự giục giã của Xuân Diệu với những con người trẻ. 6. Phân tích bài thơ Vội vàng Phong trào thơ mới xuất hiện vào giai đoạn những năm 1932-1941, dù chỉ kéo dài chưa đến một thập kỷ thế nhưng nó đã trở thành khoảng thời gian vàng kim, nâng bước một loạt các nhà thơ trẻ tuổi tài năng, với những bài thơ đặc sắc cả về thể loại, lẫn đề tài. Một trong số đó nổi bật nhất phải kể đến Xuân Diệu, người được xem là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” bởi giọng thơ thiết tha, rạo rực. Ông có một niềm say mê đặc biệt với tình yêu, bao gồm cả tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời cũng có chấp niệm sâu sắc với mùa xuân và tuổi trẻ. Vội vàng là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, đây cũng là tác phẩm thể hiện được tình yêu cuộc sống, sự nhạy cảm trong tâm hồn và những quan điểm của Xuân Diệu về mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Vội vàng 1938 được in trong tập Thơ thơ, tác phẩm như một khu vườn rực rỡ tràn đầy hương sắc, ngào ngạt hương thơm của hoa cỏ, tràn trề sự sống, là bản giao hưởng nhiều âm sắc, thể hiện đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc từ vui tươi, e ấp, đến nồng nàn, đắm say trong tình yêu của Xuân Diệu. Có thể nói rằng Vội vàng chính là tình yêu tha thiết của tác giả dành cho cuộc đời, qua đó thể hiện những xúc cảm rất mới, rất lạ, xúc cảm đến từ “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”. “Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi” Trong khổ thơ đầu tiên tác giả đã bộc lộ khát khao mạnh mẽ, cháy bỏng qua các điệp từ “Tôi muốn…”, mang đến nhịp thơ dồn dập, vội vã. Nhà thơ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để níu giữ hương sắc cho cuộc đời, đó là khát khao mãnh liệt, đầy táo bạo. Xuân Diệu muốn nắm giữ lại tất cả những gì tươi đẹp nhất của tự nhiên, ấy là ánh nắng mùa xuân dịu dàng ấm áp, hương hoa nồng nàn, đắm say phả trong gió. Qua mong muốn đầy lạ lùng ấy ta thấy rõ được cái tôi trữ tình đặc biệt của người thi sĩ, trước hết là cái “tôi” đầy ngông cuồng, táo bạo, dám đứng lên thách thức cả tạo hóa, chống lại bước đi của vũ trụ để giữ lại những cái đẹp mà bản thân khao khát. Đó cũng chính cái “tôi” hồn nhiên, trong sáng, bướng bỉnh khi đứng trước những điều mà mình yêu thương, trân trọng. Tổng hòa hai yếu tố ấy đã tạo nên một hồn thơ Xuân Diệu rất riêng, rất ấn tượng, khiến độc giả lại càng cảm nhận rõ hơn tấm lòng yêu cái đẹp, cái tuyệt vời trong vũ trụ của người thi sĩ nó mãnh liệt, sâu sắc đến nhường nào. Đồng thời cũng cho thấy quan điểm mới của Xuân Diệu về cuộc sống và cái đẹp, đối với thi nhân cái đẹp không hề ở chốn bồng lai tiên cảnh nào, mà ở ngay sát bên chúng ta, chính là những thứ tưởng chừng như thật đơn giản tầm thường, nào là ánh nắng, nào là hương hoa, đều là những thứ con người dễ dàng bỏ qua, không mấy bận tâm. Xuân Diệu sau khi đã hiểu rõ quy luật của tạo hóa, đời người vốn ngắn ngủi, chết là về với cát bụi, thì được tận hưởng những vẻ đẹp giản dị mà tạo hóa ban tặng thực sự là một đặc ân đáng quý. Người thi nhân không muốn bỏ lỡ bất kỳ một giây phút nào, thậm chứ còn ích kỷ muốn níu giữ tất cả chúng lại để riêng mình được tận hưởng. Xuân Diệu ngông cuồng, táo bạo và phi lý cũng từ những cái triết lý nhân sinh rất có lý mà nên Đời người hữu hạn và cái đẹp chỉ ở tại trần gian chứ không ở chốn nào khác, cớ sao không tận hưởng cho thỏa. Sau những nhận thức và khát khao cháy bỏng được giữ lại vẻ đẹp của thiên nhiên tạo hóa nhưng lại vượt ra ngoài khả năng của con người, Xuân Diệu đã nhanh chóng tìm cho mình một giải pháp, ấy là nhân lúc còn trẻ, còn đang sống nhanh chóng tận hưởng, nhanh chóng bắt lấy những vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban tặng, thoải mà thưởng thức sự tươi đẹp của cuộc đời, của vườn xuân một các không hối tiếc. Điều đó được thể hiện rất rõ thông qua tám câu thơ tiếp theo, không chỉ mở ra một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, tràn đầy hương sắc mà còn bộc lộ tâm thái của tác giả trước sự hữu hạn của đời người, cũng như trước sự vô hạn của vũ trụ Vội vã, khát khao, tham muốn ôm hết tất cả những gì tươi đẹp nhất vào lòng,và sự hạnh phúc sung sướng tột độ trước vườn xuân tuyệt vời. “Của ong bướm này đây tuần tháng mật Này đây hoa của đồng nội xanh rì Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Ở những câu thơ này ta dễ dàng nhận thấy được niềm vui sướng, sự hân hoan tột độ của tác giả khi phát hiện ra một thiên đường của cuộc sống đang tồn tại ngay bên cạnh mình. Từng câu thơ như mang trong mình những điệu nhạc lúc sôi động, lúc thầm thì, đầy đủ những cảm giác đắm say nồng nàn của tình yêu, của tuổi trẻ, của một mùa xuân đang căng tràn nhựa sống. Điệp khúc “này đây…” mang đến nhịp thơ dồn dập, thể hiện cảm xúc bất ngờ, niềm vui sướng hạnh phúc khi chợt nhận ra món quà quý giá mà thiên nhiên ban tặng. Bức tranh mùa xuân tươi đẹp mở đầu với cảnh cặp “ong bướm” đang ngập tràn hạnh phúc, say sưa với mật ngọt của tình yêu tựa như đôi vợ chồng trẻ quấn quýt trong tuần trăng mật. Là cảnh sắc thắm của hoa xuân cùng với sắc xanh của nội cỏ, tổng hòa tạo nên một bức tranh rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa cân đối, đó còn là cảnh “lá của cành tơ phơ phất”, lá gắn với cành, hạnh phúc êm đềm bên nhau thật tình tứ và lãng mạn biết mấy. Và thêm nữa là “khúc tình si” của cặp yến anh đang thuở mặn nồng gắn bó, mang đến không khí thực rộn ràng vui tươi, đầy đủ cả sắc, hương, vị của một bức tranh xuân nồng. Tuy nhiên Xuân Diệu không chỉ dừng ở đó, ông còn thêm vào bức tranh của mình một chút ánh sáng dịu nhẹ, chan hòa và ấm áp, tựa như sương, như nắng phụ lên tất thảy mọi cảnh vật, khiến chúng thêm phần lãng mạn và tràn ngập sức sống hơn. Câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, người ta cứ thắc mắc rốt cuộc cái “hàng mi” ấy là của ai, của chính bản thân Xuân Diệu khi đứng trong khu vườn xuân tràn ngập hương sắc ánh sáng, hay là của một nàng thơ đang dạo bước. Nhưng dù nhân vật trữ tình ấy là ai người ta vẫn luôn cảm nhận được cái chất thi vị tình tứ của người nghệ sĩ, người muốn thêm vào bức tranh thiên nhiên sự xuất hiện của con người, sự sống và tình yêu của con người, để cho bức tranh thêm hài hòa và sống động, thể hiện rõ sự gắn bó chan hòa giữa nghệ sĩ và thiên nhiên rộng lớn. Khẳng định rõ ràng vẻ đẹp của thiên nhiên luôn song hành cùng với sự phát hiện và thưởng thức của con người. Bên cạnh đó câu thơ “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa” thể hiện một triết lý sống mới mẻ của tác giả rằng mỗi một ngày được sống, được mở mắt nhìn nắng mai là một niềm vui, một niềm hạnh phúc đến tột cùng, và Xuân Diệu thật sự rất trân trọng và biết ơn điều đó. Cuối cùng kết lại bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ Xuân Diệu kết lại bằng một câu thơ đầy ấn tượng “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, mang đến sự chuyển đổi cảm giác đầy tinh tế, từ thị giác, thính giác, xúc giác, tác giả đã dẫn người đọc đến cảm nhận bằng vị giác. Không chỉ thể hiện xúc cảm muốn nuốt trọn mùa xuân vào lòng, mà còn là niềm khát khao đến tột cùng, Xuân Diệu thưởng thức mùa xuân tựa như một kẻ sành ăn thưởng thức mỹ vị của cuộc sống. Không chỉ vậy cái cách mà tác giả so sánh mùa xuân, so sánh tháng giêng giống như “cặp môi gần” cũng khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng trước sự lãng mạn, tình tứ của một người luôn đắm say và khao khát tình yêu. Đối với thi nhân mùa xuân trước mắt thực căng tràn nhựa sống, tựa như một người con gái đang sắc xuân thì, khiến người ta thực muốn nâng niu, trân trọng hết lòng. Sau những cảm xúc thăng hoa, vội vã thưởng thức từng vẻ đẹp của thiên nhiên bằng cách khai mở hoàn toàn tất cả các giác quan, bỗng Xuân Diệu chợt khựng lại “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Rõ ràng đang đắm say đủ chiều với cảnh thiên nhiên rực rỡ, khi bữa tiệc vừa qua một nửa, người thi nhân đã thấp thỏm lo âu mà mang theo cảm xúc tiếc nuối. Xuân Diệu không đợi đến hè mới tiếc xuân mà người đã tiếc mùa xuân, sợ xuân qua đi mất ngay chính giữa lúc mùa xuân đang nồng nàn, đượm sắc nhất, thực giống một kẻ đang son trẻ mà cứ sợ già, tiếc tuổi thanh xuân. Có thể người ta cho ấy là kỳ lạ, là lo xa thế nhưng đọc những vần thơ tiếp của Xuân Diệu ta mới thưc hiểu rằng những nỗi sợ, nỗi tiếc của tác giả đều có nguyên nhân cả. “Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại. Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;” Xuân Diệu nhận ra một quy luật tàn nhẫn của tạo hóa, rằng mùa xuân đến rồi mùa xuân sẽ đi, và cuộc đời cũng như thế con người có thời son trẻ nhưng rồi cũng sẽ phải già đi và trở về với cát bụi. Thế nên ông mới có một câu oán trách rất hay rằng “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/Không cho dài thời trẻ của nhân gian”, trách sao đời người không dài thêm chút nữa, để ông được tận hưởng thêm một chút hương sắc của trần gian, mà lại ngắn ngủi chẳng đủ cho người ta vui sống. Dù mùa xuân tươi đẹp “vẫn tuần hoàn” thế nhưng thi nhân chỉ có cơ hội sống một lần trên thế gian này, thì cũng chẳng kịp nhìn mùa xuân được lần nữa tươi đẹp, trời đất và vũ trụ vẫn mãi còn nguyên đấy, thế nhưng “chẳng còn tôi mãi”. Có thể nói rằng ở đoạn thơ này cái tôi cá nhân của Xuân Diệu được thể hiện rất rõ, không chỉ oán trách cuộc sống ngắn ngủi, mà còn cho người đọc cảm giác thi nhân giữa đất trời dường như đang ở vị trí trung tâm, tầm vóc cá nhân được đặt ngang bằng với tầm vóc vũ trụ, đó là một cái tôi rất ngông cuồng và tự tin mà ta đã thấy ở đầu tác phẩm. Chính vì ý thức được sự hữu hạn của cuộc sống, sự tàn nhẫn của vòng tuần hoàn “sinh lão bệnh tử” thế nên Xuân Diệu không tránh khỏi cảm giác “bâng khuâng tiếc cả đất trời”. Cuộc đời này người thi nhân còn khao khát được tận hưởng được vui sống nhiều lắm, cả mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ đều là những thứ mà tác giả hằng tâm niệm, hằng trân trọng nhất, xem như lẽ sống của cuộc đời. Thế nên khi phải buông tay từ giã, hoặc là sắp phải chia xa, người thi nhân đều cảm thấy nuối tiếc và buồn bã khôn nguôi. Thế nhưng Xuân Diệu là một tác giả rất tích cực, người không có nhiều cái đau buồn sầu não như Huy Cận, cũng không tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử, trái lại ý thức được sự hữu hạn của tuổi trẻ, của đời người tác giả đã nhanh chóng tìm ra cho mình một giải pháp mới. Nếu như ban đầu người muốn chặn đứng bước đi của thời gian, thì giờ đây Xuân Diệu lại đưa ra một cách thức phù hợp hơn ấy chính là buông lỏng bản thân, nhanh chóng hòa mình vào thưởng thức mùa xuân một cách trọn vẹn và nhiều nhất có thể. “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Ngay lúc này đây Xuân Diệu đã hoàn toàn ý thức được sự quý giá của tuổi trẻ và mùa xuân trước mắt thế nên người vội vã bước vào thưởng thức bữa tiệc mùa xuân ngay trước mắt một cách vồ vập, đầy khao khát mãnh liệt, dường như chỉ sợ chậm một giây thôi là bữa tiệc trước mắt sẽ biến mất. Các động từ mạnh “ôm”, “riết”, “thâu” cùng với điệp từ “ta muốn” càng nhấn mạnh được cái khao khát muốn nuốt trọn thanh sắc tuyệt vời của mùa xuân, muốn được điên cuồng trong tình yêu, đến tận “no nê thanh sắc của thời tươi” để không còn nuối tiếc gì hơn nữa. Có thể nói rằng thay vì chỉ thưởng thức một lần Xuân Diệu đã cố gắng thức dậy tất cả mọi giác quan, mọi sức lực trong cơ thể để hòa mình vào bữa tiệc đượm đà của thiên nhiên “chếch choáng” với mùi thơm, “đã đầy” với ánh sáng, ôm trọn vào lòng những cây, những cỏ, nhưng hương thơm nồng ấm. Đoạn thơ này người ta thấy Xuân Diệu rất “tham”, dường như đang ra sức vơ vét, tận hưởng bằng hết chẳng chừa lại cho ai thứ gì, không những vậy mà người thi nhân thậm chí còn muốn tận hưởng mùa xuân ấy gấp đến mấy lần chứ không chỉ là một lần duy nhất. Điều đó càng khẳng định rõ ý thức của Xuân Diệu về cái hữu hạn của đời người, cái ngắn ngủi của tuổi xuân, cũng như quy luật xoay vần đầy tàn nhẫn của tạo hóa. Xuân Diệu không chống lại được bước đi của thời gian thì ông tìm cách tận hưởng như thể mình có tận hai ba cuộc đời. Đấy là một giải pháp thực thông minh và rất nhân văn của người nghệ sĩ, mở ra cho độc giả những suy nghĩ và nhận thức mới mẻ. Câu thơ kết “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!” chính là tột đỉnh của tấm lòng yêu xuân, khao khát tận hưởng mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ một cách mãnh liệt và chân thành nhất, không chỉ là cái ôm, cái thâu, cái riết chặt mà là một ngụm cắn thật sâu, thật tình tứ mang cả tình xuân vào trong bụng, chiếm giữ cho riêng mình. Thực ích kỷ nhưng cũng thực đáng yêu cho cái tôi ngông cuồng và trẻ con của người nghệ sĩ. Vội vàng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Xuân Diệu trong phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941 không chỉ thể hiện được những quan niệm, triết lý nhân sinh mới mẻ về cuộc đời của người nghệ sĩ mà thông qua đó còn bộc lộ tấm lòng tha thiết, cuồng nhiệt của tác giả đối với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu. Xuân Diệu là làn gió mới đã thổi tan cái buồn lắng đọng suốt mấy năm trời của giới thơ mới, mở ra một chân trời mới, mang đến chất Pháp dịu dàng, lãng mạn, nhưng vẫn rất đậm đà hương sắc đất Việt, thật xứng với danh “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 11, Ngữ Văn 11 Bài viết Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhan đề bài thơ Vội vàng được Luật Gia Bùi tổng hợp và điều chỉnh chính xác thông tin và đăng tải lại trên website. Nếu bạn có bất cứ nhu cầu cần tư vấn về Luật, hãy liên hệ với dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. 1. Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Vội Vàng “Vội vàng” là một từ ngữ có nghĩa là muốn sử dụng thời gian một cách nhanh chóng để hoàn thành một việc gì đó. Với Xuân Diệu, nhà thơ được biết đến với biệt danh “Ông hoàng thơ tình”, tiêu đề “Vội vàng” thể hiện một triết lý sống mới của ông. Theo như triết lý này, sống vội vàng không chỉ đơn thuần là sống nhanh, sống gấp rút, sống ích kỉ. Thay vào đó, đó là cách sống biết tận hưởng mọi giá trị tốt đẹp trong cuộc sống và tận hiến cho những giá trị đó trong thế giới hiện tại. Đồng thời, nhà thơ cũng muốn gián tiếp phê phán những lối sống thờ ơ và lãng quên thực tại. Điều này cho thấy rằng chúng ta cần phải trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống, hưởng thụ mọi thứ xung quanh và sống với trách nhiệm với mọi giá trị cuộc sống, để có thể tạo ra một cuộc sống đầy đủ và ý nghĩa hơn. 2. Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Vội Vàng “Bài thơ Vội vàng” của Xuân Diệu trong tập “Thơ Thơ” 1938 là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông trước cách mạng rút. Bài thơ này thể hiện tình yêu cuồng nhiệt của tác giả đến với cuộc sống và những cảm xúc nồng nàn tha thiết của một con người khi hạnh phúc hay đau khổ. Điều đặc biệt trong bài thơ này là quan niệm nhân sinh mới mẻ mà Xuân Diệu muốn truyền tải đến độc giả. Đó là những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời và ý nghĩa của nó, với sự tận tâm và cảm xúc chân thành. Các từ ngữ trong bài thơ được chọn lựa kỹ càng, mỗi từ gợi lên một hình ảnh sắc nét, tạo nên một bức tranh hình dung về cuộc sống tươi đẹp, về tình yêu và hy vọng, về những tâm hồn đang dần trưởng thành. Vì vậy, “Vội vàng” không chỉ là một tác phẩm văn học đơn thuần, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đích thực, mang lại cảm hứng và tinh thần cho người đọc. 3. Giá trị nội dung bài thơ Vội vàng Bài thơ khuyên nhắc thế hệ trẻ sống nhanh trước khi tuổi trẻ qua đi, bởi thời gian không chờ đợi ai. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự ham sống và quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc của tác giả Xuân Diệu. Cái tôi trong thơ ông là biểu tượng cho thơ Mới thời đó. – Quan niệm vẻ đẹp con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của thiên nhiên, vượt thoát quan niệm nghệ thuật cũ kĩ của văn học trung đại. – Ý thức cá nhân, đời sống cá thể, khao khát của một người được bày tỏ mạnh mẽ. – Quan niệm mới mẻ về thời gian, thời gian tuyến tính thay vì tuần hoàn như quan niệm của người trung đại. – Khao khát sống mãnh liệt và tâm thế chủ động, sẵn sàng hưởng thụ hạnh phúc cá nhân, tương đương với mùa xuân và tuổi trẻ. 4. Giá trị nghệ thuật bài thơ Vội vàng Bài thơ của Xuân Diệu mang đến một thông điệp sâu sắc về tầm quan trọng của cuộc sống và thời gian. Tác giả muốn nhắc nhở cho thế hệ trẻ rằng tuổi trẻ chỉ đến một lần duy nhất và thời gian sẽ không đợi một ai cả. Những giây phút đẹp nhất trong cuộc đời chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, vì vậy hãy sống với tất cả sự nhiệt huyết và tận hưởng những điều tuyệt vời nhất mà cuộc đời có thể mang đến. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu và quan niệm sống mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc. Bằng cách sử dụng các hình ảnh thơ độc đáo và giàu sức gợi cảm, Xuân Diệu đã tạo ra một bức tranh tươi đẹp về mùa xuân và thiên nhiên, giúp độc giả cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân thông qua tất cả các giác quan của mình. Từ cách sử dụng ngôn ngữ đến thủ pháp ẩn dụ, bài thơ của Xuân Diệu đã trở thành một tác phẩm văn học vĩ đại của thời đại thơ Mới. Đây là một trong những dấu mốc quan trọng cho sự thắng thế hoàn toàn của thơ Mới trên thi đàn lúc bấy giờ. 5. Đọc – hiểu nội dung Phần 1 Tình yêu tha thiết với cuộc sống nơi trần thế Bốn câu đầu khát vọng lạ lùng của tác giả Bốn câu đầu thể hiện khát vọng lạ lùng của thi nhân muốn đoạt quyền tạo hóa và làm ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên. Điều này được thể hiện qua những động từ tính cảm xúc nồng nàn mãnh liệt như tắt nắng, buộc gió, màu đừng nhạt, và hương đừng bay. Chín câu tiếp theo bức tranh thiên nhiên của mùa xuân nồng nàn, tươi mới và tràn đầy sức sống Đây là phiên bản ngắn gọn hơn của đoạn văn bạn cung cấp Thi nhân miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân bằng hình ảnh sống động Ong và bướm đang thu hoạch mật Hoa đồng nội nở trong màu xanh Cành cây lung linh trong gió thổi Yến anh hát vang, níu chân người nghe Ánh nắng chiếu rọi, phản chiếu trên đôi mắt của cô gái xinh đẹp. Những từ ngữ tươi mới của mùa xuân như xanh rì, cùng với âm thanh trầm lắng của khúc tình si và những hình ảnh đầy màu sắc như hoa đồng nội, cành tơ và ong bướm, đã tạo nên một bức tranh xuân dồi dào sinh lực. Đây là một khung cảnh tràn đầy sức sống và tinh khôi, hấp dẫn và đầy xuân tình. Mỗi bước chân của thi nhân được miêu tả bằng một điệp từ đầy hào hứng và khám phá. Những bước chân đó khám phá và tìm kiếm vẻ đẹp của mùa xuân, tạo nên một khung cảnh đầy tươi trẻ và rực rỡ. Bức tranh xuân tươi đẹp đã tồn tại từ lâu nhưng cho đến bây giờ, Xuân Diệu mới thực sự nhìn thấy nó. Với đôi mắt xanh non và biếc rờn, Xuân Diệu đã cảm nhận được vẻ đẹp đầy mê hoặc và đáng yêu của mùa xuân. Cuộc sống mùa xuân tràn ngập trước mắt Xuân Diệu như một bữa tiệc trần gian đang mời gọi con người thưởng thức. Với quan điểm của Xuân Diệu, bức tranh xuân tươi đẹp không phải ở một nơi xa xôi, mà nằm ngay trong cuộc sống đời thường. Các từ ngữ và hình ảnh miêu tả mùa xuân đều xuất hiện xung quanh chúng ta và chỉ cần chúng ta dừng lại để cảm nhận, chúng ta sẽ thấy được vẻ đẹp của mùa xuân. Đây là một quan niệm nhân sinh mới mẻ và tích cực, khác với quan điểm của các nhà thơ lãng mạn cùng thời. Thiên nhiên đẹp. Với Xuân Diệu, đẹp nhất là con người trong tuổi trẻ và tình yêu. Xuân Diệu miêu tả người thiếu nữ bằng những hình ảnh độc đáo, ví như tháng giêng giống như cặp môi gần của một thiếu nữ. Thi sĩ tận hưởng vẻ đẹp của trần gian và cuộc đời, nhưng cũng cảm thấy tiếc xuân ngay giữa mùa xuân. Nhờ cách cảm nhận tinh tế về thiên nhiên và con người, nhà thơ đã bày ra một bữa tiệc trần gian và gợi lên niềm cảm xúc ngây ngất trước cảnh sắc ấy. Phần 2 Quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian – tình yêu – tuổi trẻ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ Xuân Diệu chống đối quan niệm xưa về thời gian tuần hoàn bằng cách sử dụng các cặp từ đối lập, giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi khẩn trương. Ông lựa chọn một quan niệm khác thời gian tuyến tính, một đi không trở lại. → Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Đây là quan niệm rất biện chứng về tuổi trẻ. Xuân Diệu sử dụng tuổi trẻ, mùa xuân làm thước đo thời gian, thậm chí lấy quãng thời gian ngắn nhất, giàu ý nghĩa trong sinh mệnh con người. Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, khác với mùa xuân có thể tuần hoàn. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Giới hạn lớn nhất của con người chính là thời gian. Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian đầy tính mất mát, bởi mỗi khoảnh khắc đều trôi qua để trở thành quá khứ, như một cuộc chia lìa, một sự tàn phai của vạn vật, và không gian đang tiễn biệt thời gian. Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn nỗi phải bay đi Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Nhà thơ Xuân Diệu coi tuổi trẻ và tình yêu là kho báu quý giá nhất của cuộc đời, ngay cả khi cảnh vật xung quanh phai nhạt và đi vào độ tàn phai, u ám. Nhằm tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống và vượt qua giới hạn của thời gian, ông đề xuất phương thức sống vội vàng, sống gấp gáp, như trong câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Phần này nhấn mạnh quan điểm của Xuân Diệu về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu, và cách sống vội vàng của ông. Phần 3 Lời tác giả kêu gọi sống vội vàng, giục giã, cuống quýt Xuân Diệu cho rằng, sống vội vàng, gấp gáp không đủ, còn phải cường độ hơn, dồn nén hơn. Ngôn từ rất sắc nét, cùng hợp với tâm trạng tăng tiến dùng từ “ôm” chưa đủ, còn muốn “riết” cho chặt lại. “Riết” chưa đủ, còn thèm một cách yêu say đắm, muốn “thâu trong một cái hôn nhiều” cho no nê, lấp đầy. Cuối cùng là “cắn” vào xuân hồng. Đây là một cách diễn đạt táo bạo theo phong cách của Xuân Diệu. Tác giả muốn thể hiện cảm xúc mãnh liệt của mình. Cái tôi của ông ấy đã hòa trộn vào cái tôi của chúng ta, tạo ra những âm điệu say sưa, chuếch choáng. Thể thơ linh hoạt, nhịp điệu tràn đầy cảm xúc. Tính từ chỉ xuân sắc và trạng thái được dùng khéo léo, truyền tải được tình yêu mãnh liệt và táo bạo của tác giả. Tác giả Có ý thức rõ ràng về giá trị cuộc sống của mỗi cá nhân, ý thức nhân bản, nhân văn rất cao. Rất đam mê cuộc sống thường nhật, với niềm vui đời thường. Khát khao sống mãnh liệt và tâm trạng sống cuồng nhiệt. ⇒ Đoạn thơ thể hiện tình yêu cuồng nhiệt đối với cuộc sống. Đằng sau tiếng nói yêu đời là một quan niệm tích cực về cuộc sống Hãy sống trọn vẹn mỗi khoảnh khắc của tuổi trẻ! Liên hệ dịch vụ luật chuyên nghiệp – Luật Gia Bùi CÔNG TY TNHH LUẬT GIA BÙI Địa chỉ Số 2, ngách 1, ngõ 243 Trung Văn, P Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội Hotline 0971106895 Nguồn Bạn đang thắc mắc về câu hỏi hoàn cảnh sáng tác vội vàng nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi hoàn cảnh sáng tác vội vàng, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ cảnh sáng tác Vội vàng – Top lời vàng Hoàn cảnh sáng tác, Tóm tắt, Ý nghĩa, Giá trị nghệ thuật cho e bt xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của bài thơ “Vội vàng” vàng – Xuân Diệu Tác giả – Tác phẩm lớp 11 – cảnh sáng tác vội vàng – cảnh ra đời các tác… – Hội những người học khối D1 Vàng- xuân thơ Vội vàng Xuân Diệu – Tác giả tác phẩm mới 2022 thơ Vội vàng In trong tập Thơ thơ 1938, Xuân thơ Vội vàng Xuân Diệu – Tiếng nói của một con tim say mêNhững thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi hoàn cảnh sáng tác vội vàng, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Văn Học -TOP 9 hoàn cảnh sáng tác tràng giang HAY và MỚI NHẤTTOP 9 hoàn cảnh sáng tác ngắm trăng HAY và MỚI NHẤTTOP 10 hoàn cảnh sáng tác các văn bản lớp 9 HAY và MỚI NHẤTTOP 10 hoàn cảnh sáng tác chiếu dời đô HAY và MỚI NHẤTTOP 9 hoàn cảnh sáng tác bài thơ đồng chí HAY và MỚI NHẤTTOP 8 hoàn cảnh ra đời của tổ chức asean HAY và MỚI NHẤTTOP 9 hoàn cảnh ra đời của tuyên ngôn độc lập HAY và MỚI NHẤT Bài viết liên quan Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Người trong bao Sơ đồ tư duy Truyện Kiều- Ngữ văn lớp 9 Dàn ý bài hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Người trong bao Hoàn cảnh sáng tác Khi con tu hú Hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Rừng xà nu Hoàn cảnh sáng tác và tác dụng của hoàn cảnh sáng tác Ngữ Văn lớp 9Hoàn cảnh sáng tác là thời điểm, bối cảnh sáng tác của một tác phẩm văn học, hoàn cảnh sáng tác không chỉ xác định thời gian sáng tác mà qua đó ta có thể xác định được giá trị nội dung, đối tượng mà tác phẩm phản ánh cũng như những tư tưởng, quan niệm mà nhà văn, nhà thơ muốn gửi gắm qua tác phẩm CẢNH SÁNG TÁC VÀ TÁC DỤNG HCST VĂN 91. Hoàn cảnh sáng tác bài Đồng chí- Chính Hữu- Được viết đầu năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947. In trong tập "Đầu súng trăng treo" 1966- HCST giúp ta hiểu sâu sắc hơn về cuộc sống chiến đấu gian khổ của những người lính, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính- Phạm Tiến Duật- Viết năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang trong giai đoạn vô cùng ác liệt. Nằm trong chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ báo văn nghệ 1969 được đưa vào tập thơ "Vầng trăng quầng lửa"- HCST giúp ta hiểu thêm về cuộc kháng chiến gian khổ, ác liệt của dân tộc và tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính trên tuyến đường Trường Hoàn cảnh sáng tác Đoàn thuyền đánh cá- Huy Cận- Giữa nâm 1958, Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ HC mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui của con người trước cuộc sống mới. Bài thơ được viết vào tháng 10/1958. In trong tập "Trời mỗi ngày lại sáng" 1958.- HCST này giúp ta hiểu thêm về hình ảnh con người lao động mới, niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ đối với đất nước và cuộc sống Hoàn cảnh sáng tác Bếp lửa - Bằng Việt- Được viết năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài Liên Xô cũ. Bài thơ được đưa vào tập "Hương cây-Bếp lửa" 1968 tập thơ đầu tay của Bằng Việt - Lưu Quang HCST cho ta thấy tình yêu quê hương đất nước và gia đình của tác giả qua những kỉ niệm cụ thể về người bà và bếp Hoàn cảnh sáng tác Ánh trăng - Nguyễn Duy- Được viết năm 1978, 3 năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. In trong tập thơ cùng tên của tác HCST giúp ta hiểu được cuộc sống trong hòa bình với đầy đủ các tiện nghi hiện đại khiến con người dễ quên đi quá khứ gian khổ khó khăn, hiểu được cái "giật mình" tự vấn lương tâm đáng trân trọng của tác Hoàn cảnh sáng tác Mùa xuân nho nhỏ- Thanh Hải- Được viết vào tháng 11/1980, 5 năm sau khi đất nước được thống nhất và đây là một trong những mùa xuân đầu tiên của dân tộc. Lúc này, tác giả đang nằm trên giường bênh không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời. Tác phẩm được in trong tập thơ "Thơ VN 1945-1985 NXB GD HCST giúp người đọc hiểu được tiếng lòng tri ân, thiết tha yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành được cống hiến cho đất nước, góp một màu xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất Hoàn cảnh sáng tác Viếng lăng Bác - Viễn Phương- Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch HCM vừa khánh thành, Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ "Như mây mùa xuân" 1978- HCST giúp ta hiểu được tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ, của đồng bào miền Nam, của dân tộc Việt Nam đối với Bác Hồ kính Hoàn cảnh sáng tác Sang thu - Hữu Thỉnh- Viết năm 1977, 2 năm sau khi đất nước thống nhất, đây là một trong những mùa thu bình yên đầu tiên của dân tộc. Bài thơ được in lần đầu trên báo Văn Nghệ, sau được in trong tập thơ "Từ chiến hào đến thành phố"- HCST giúp ta hiểu được niềm bâng khuâng của tác giả khi đất trời vào thu, đây không chỉ là sự chuyển giao của mùa thu mà còn là sự chuyển giao của cuộc đời sau bao biến động, đất nước cũng vững vàng hơn trước mọi thử Hoàn cảnh sáng tác Nói với con - Y Phương- Sáng tác năm 1980, khi thế hệ nhà thơ vừa thoát khỏi chiến tranh, cái nghèo phủ trên từng con phố, bản làng, gương mặt. In trong tập " Thơ VN 1945-1985"- HCST giúp ta hiểu được tâm sự của người cha đối với con. Đây vừa là lời động viên tinh thần con vượt qua mọi gian khổ, vừa là sự tôn vinh phẩm chất kiên cường, giàu tình yêu thương của người đồng Hoàn cảnh sáng tác Làng - Kim Lân- Năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp; đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ 1948- HCST giúp ta hiểu được cuộc sống và tinh thần kháng chiến đặc biệt là nét chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân đó là tình yêu làng gắn bó thống nhất với tình yêu đất Hoàn cảnh sáng tác Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long- Được viết vào mùa hè năm 1970, là kết quả của chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả, khi miền Bắc tiến lên XDCNXH, xây dựng cuộc sống mới. Rút từ tập "Giữa trong xanh" 1972- HCST giúp ta hiểu được cuộc sống, vẻ đẹp của những con người lao động thầm lặng, có cách sống đẹp, cống hiến sức mình cho đất Hoàn cảnh sáng tác Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng- Được viết 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, tác phẩm được đưa vào tập truyện cùng HCST giúp ta hiểu được cuộc sống, chiến đấu và đời sống tình cảm của người lính, của những gia đình Nam Bộ- tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến Hoàn cảnh sáng tác Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê- Viết năm 1971, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. In trong tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê, NXB Kim Đồng HN HCST giúp ta hiểu hơn về cuộc sống chiến đấu và vẻ đẹp tâm hồn của những nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Khi tìm hiểu và phân tích một tác phẩm thơ văn, bên cạnh Hoàn cảnh sáng tác, phân tích nội dung, giá trị tư tưởng của các tác phẩm là nội dung tham khảo mà các em không nên bỏ qua. Để nắm được nội dung, đặc sắc nghệ thuật của những tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 9, Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 9 kì 2 và bài Tổng hợp các bài văn mẫu lớp 9 kì 1 sẽ giúp các em củng cố kiến thức một cách toàn diện.

hoàn cảnh sáng tác vội vàng